Sức sống của truyện Kiều trong dòng chảy văn hóa dân tộc
HNTĐ
Từ đầu thế kỷ XX, học giả Phạm Quỳnh có câu nói nổi tiếng: “ Truyện Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn, nước ta còn”. Trải qua hàng trăm năm với biết bao dâu bể từ khi Đại thi hào Nguyễn Du viết ra, Truyện Kiều vẫn mãi mãi lay động tâm trí hàng triệu triệu người trên thế giới. Có thể nói, chưa có một văn thơ nào của Việt Nam được truyền tụng, thấm đẫm nhân văn trong đời sống xã hội như Truyện Kiều.
Hơn 200 năm qua, Truyện Kiều với vị trí là “ tập đại thành của văn học cổ điển nước nhà” đã tồn tại xuyên suốt với chiều dài lịch sử văn hóa dân tộc, Truyện Kiều vẫn có một sức sống mãnh liệt trong đời sống nhân dân Việt Nam, bởi nó không chỉ là câu chuyện về văn chương Việt mà còn là ý thức về bản ngã về văn hóa Việt, bản sắc Việt, tâm hồn Việt . Đúng như suy nghĩ của chúng ta, Truyện Kiều gắn bó với mỗi người dân Việt ngay từ khi cất tiếng khóc chào đời trong tiếng ru à ơi của bà, của mẹ…Truyện Kiều cũng là tác phẩm không phân biệt người đọc, vừa mang tính bác học, hàn lâm, vừa dân dã, gần gũi. Người nông dân vừa cày, vừa cấy, vừa say sưa trích đoạn ít câu Kiều, chàng lính trẻ chao mình trên cánh võng Trường Sơn ngâm Kiều trong những năm chiến tranh lửa đạn; bao thế hệ giáo viên, học sinh vẫn miệt mài giảng dạy, học tập Truyện Kiều… Có một câu chuyện hết sức cảm động là trong nhà lao trước giờ xử án, Lý Tự Trọng đã xin một cuốn Kiều để đọc, để ngâm. Gần đây, tại Bình Dương có một người làm nghề chăn nuôi lợn đã dành dụm vốn liếng xây dựng một “ Vườn Kiều” “ có cây cổ thụ, có hoa bốn mùa”…
Sức sống của Truyện Kiều trong đời sống người dân Việt Nam được thể hiện ở nhiều khía cạnh. Thể hiện trong đời sống dân gian, nhiều câu thơ trong Truyện Kiều được nhân dân truyền miệng, vận dụng và dần trở thành một lối hành văn biểu đạt ý nghĩa sâu sắc. Không chỉ đời cụ Nguyễn Du, mà ngày nay khi yêu nhau , một chàng trai tặng quà cho cô gái của mình, đã dùng lời nói của Kim Trọng nói khi tặng quà cho Thúy Kiều, hết sức văn hóa và tế nhị vì biết giảm nhẹ giá trị vật chất, nhấn mạnh giá trị kỷ niệm:
Rằng: trăm năm kể từ đây
Của tin gọi một chút này làm ghi
Rồi khi tình yêu đang nồng nàn, vì lẽ gì đó, đôi lứa phải xa nhau, chàng trai nào mà chẳng muốn dặn dò người tình thủy chung, giữ gìn mọi thứ vì tình yêu của họ. trong hoàn cảnh đó dễ gì tìm ra lời nói phù hợp vì dễ làm người yêu phật lòng, thế nên chàng trai lại mượn lời Kim Trọng dặn Thúy Kiều trước lúc chia tay về quê hộ tang chú:
Gìn vàng, giữ ngọc cho hay
Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời.
Nghe xong lời người yêu dặn, cô gái nhanh trí trả lời:
Thương sao cho trọn thì thương
Tính sao cho vẹn mọi đường, thì vâng!
Tình yêu của đôi trai gái ấy lại càng gắn kết với nhau hơn bởi ở họ còn là những người cùng tâm đắc Truyện Kiều. Thế đấy, có những câu Kiều không những giúp người ta chuyển tải ý kiến của mình một cách trọn vẹn hết sức văn hóa , mà càng làm họ gắn kết, xích lại gần nhau hơn.
Có thể nói, cho đến nay ở nước ta chưa có một tác phẩm văn học nào có tầm ảnh hưởng sâu rộng như Truyện Kiều, Do yêu Truyện Kiều mà nảy sinh nhiều loại hình nghệ thuật, văn chương như tập Kiều, lẩy Kiều, bình Kiều, vịnh Kiều, đố Kiều , thậm chí còn dùng Truyện Kiều để bói toán vận hạn tốt xấu ( bói Kiều). Huyện Nghi Xuân, Tỉnh Hà Tĩnh, quê hương của Đại thi hào Nguyễn Du còn nổi tiếng với một loại hình diễn xướng là trò Kiều. Được chuyển tác từ Truyện Kiều, trò Kiều là hình thức hát, diễn xuất và làm trò với những nội dung là những điển tích điển cố trong Truyện Kiều.Từ vịnh Kiều, bình Kiều mang đậm màu sắc của giới trí thức nho học, đến ngâm Kiều , đố Kiều, lẩy Kiều, bói Kiều mang đậm màu sắc dân gian đã thu hút được số đông mọi tầng lớp nhân dân tham gia. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi xin giới thiệu một số loại hình:
-Vịnh Kiều là lấy Truyện Kiều hoặc các nhân vật trong Truyện Kiều làm đề tài để qua đó giãi bày tâm sự hoặc nêu lên quan điểm của mình khi nhận định một vấn đề nào đó. Chẳng hạn như cụ Nguyễn Khuyến viết:
Có tiền việc trước mà xong nhỉ
Thời trước làm quan cũng thế à?
Thì đâu phải chỉ vịnh thằng bán tơ mà còn là lời tố cáo các tệ nạn tham nhũng của xã hội đương thời.
-Lẩy Kiều là lựa chọn những câu thích hợp trong số 3254 câu trong Truyện Kiều rồi nối lại sao cho có vần và có nghĩa theo dụng ý của người viết để tạo nên một bài viết về một chuyện nào đó. Tất nhiên có thể thêm bớt để sao cho hợp ý định riêng theo nội sung mình kể. Phải thuộc Truyện Kiều mới có thể lựa chọn được các câu hợp cảnh, hợp người. Sau đây là trích đoạn của một bài lẩy Kiều của GS- Nguyễn Lân Dũng khi về thăm quê hương của cựu chiến binh Đoàn Văn Đạt, người trở thành chủ nhiệm bánh đậu xanh Nguyên Hương ( Hải Dương), cảm phục nghị lực của ông, nhất là đức tính ham làm từ thiện, Giáo sư đã viết bài lẩy Kiều : “Bánh ngọt tình vàng”
…Hải Dương tình lại gặp tình
Một vùng như thể cây quỳnh, cành giao
Đậu xanh hương bánh ngọt ngào
Nghề gia truyền đã rơi vào tay ai
Đã không kẻ đoái, người hoài
Tiếc nghề mà lại ngậm ngùi cho thân
Lại càng mê mẩn tinh thần
Tìm người ghé lại ân cần hỏi han
Giờ đây bèo hợp, mây tan
Xin bày cho những cách làm ngày xưa
Quản bao tháng đợi, năm chờ
Cũng may dây cát được nhờ bóng cây
Nghề xưa càng lắc, càng đầy
Phúc nào đổi được giá này cho ngang…
- Bói Kiều: Thông thường khi muốn bói Kiều, người ta khăn áo chỉnh tề, tay cầm cuốn Truyện Kiều thành tâm với điều mà mình muốn biết sắp xẩy ra như thế nào, nhìn nén hương đang cháy nghi ngút và khấn: “ Lạy vua Từ Hải, lạy vãi Giác Duyên, lạy tiên Thúy Kiều, con tên là…xin cho con biết chuyện X của con sẽ như thế nào, xin ứng vào trang ( phải hoặc trái), dòng thứ …(tính từ dưới lên hoặc trên xuống). Khấn xong thì người bói lật trang Kiều để tìm câu ứng nghiệm, tùy theo tâm thế của mình mà suy ngẫm, so sánh, tính già, tính non…
- Bên cạnh đó, khảo sát ca dao, dân ca, hát trống quân, hát ví, hát giặm, ta cũng thấy nhân vật trong Truyện Kiều được đi vào trong lời ăn, tiếng nói của nhân dân. Chẳng hạn, trong hò Nam Bộ: “ Đường Sài Gòn trơn như mỡ. Cát núi Sập lạnh như gương. Dang tay đưa bạn lên đường. Gá duyên để gió, khác chi Kim Trọng về để lại khúc đoạn trường cho Kiều nương”.
Trong hò Huế ở Bình Trị Thiên: “ Sen xa hồ sen khô hồ cạn. Lựu xa đào, lựu ngả, đào nghiêng. Xa em ngày tháng gieo sầu. Khác nào như Thúy Kiều xa Kim Trọng, biết mấy niên cho hết sầu”.
Hoặc trong hát quan họ Bắc Ninh:
“ Bây giờ tôi mới gặp tình
Khác gì Kim Trọng thanh minh gặp Kiều
Tiện đây cho hỏi một điều
Đài gương soi đến dấu bèo cho nhau?
Từ khi ăn một miếng trầu
Miệng ăn môi đỏ, dạ sầu tương tư…”
-Đố Kiều: Xuất phát từ tính phổ biến của Truyện Kiều trong đời sống dân gian, đố Kiều đã trở thành một trò chơi văn nghệ được người dân yêu thích. Điều đặc biệt khi chơi trò này, cả người ra câu đố và người giải đốthường dùng thơ lục bát để chuyển tải ý của mình. Trò chơi đố Kiều diễn ra ở nhiều nơi, dưới nhiều hình thức khác nhau. ở xứ Nghệ nói chung và ở địa bàn Nghi Xuân ( Hà Tĩnh) nói riêng, đố Kiều thường diễn ra trong các cuộc hát phường vải. Đố Kiều cũng có nhiều dạng, ví dụ như sau:
Truyện Kiều anh thuộc đã lòng
Chỗ nào tơ liễu mà không buông mành
Trả lời:
Dưới cầu nước chảy trong veo
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha
Hay :
Tiện đây hỏi khách cưu giao
Chàng Kim đau bụng thế nào chàng ơi ?
Trả lời:
Khi tựa gối, khi cúi đầu
Khi vò chín khúc, khi chau đôi mày
Còn đối với các loại hình biểu diễn chuyên nghiệp,Truyện Kiều cũng là cảm hứng cho các văn nghệ sỹ sáng tạo, từ hội họa, âm nhạc, sân khấu…chúng ta bắt gặp rất nhiều tác phẩm được phóng tác chuyển thể từ Truyện Kiều. Truyện Kiều cũng đã được chuyển thể sang các loại hình nghệ thuật như chèo, tuồng, điện ảnh. Từ những năm 1923-1924 đã dựng một bộ phim có khoảng 20-30 nhân vật trong Truyện Kiều nhưng không được thành công bởi sức ảnh hưởng và lan tỏa của Truyện Kiều trong đời sống quá lớn. Nhưng trong những năm gần đây, một số bộ phim liên quan đến Nguyễn Du và truyện Kiều được ra đời, trong số đó phải kể đến phim điện ảnh “ Long Thành cầm giả ca” do cục điện ảnh , hãng phim Giải Phóng thực hiện từ năm 2010. Ngoài ra, còn một số phim tư liệu như “ Truyện Kiều từ cõi trăm năm” do tỉnh Hà Tĩnh sản xuất; phim tài liệu chính luận “ Đại thi hào Nguyễn Du” do Đài truyền hình Việt Nam sản xuất; phim “ Lệ chảy quanh thân Kiều” do Hội Kiều học thực hiện.
Trong lĩnh vực sư phạm, Truyện Kiều là tác phẩm duy nhất được đưa vào giảng dạy ở tất cả các bậc học, từ tiểu học, THCS, THPT cho đến bậc đại học. Không như ở cấp bậc phổ thông chỉ tiếp cận Truyện Kiều ở khía cạnh tìm hiểu về thi pháp của Nguyễn Du, ở bậc đại học các sinh viên sẽ được lý giải sâu sắc hơn nữa Truyện Kiều nhìn từ góc độ văn hóa, xã hội dân tộc. Truyện Kiều được đưa vào giảng dạy từ rất sớm, năm 1914. Theo Giáo Sư, nhà Giáo nhân dân Nguyễn Đình Chú , đồng thời là chủ biên SGK Văn lớp 10 nhấn mạnh: “ Việc dạy văn học để giáo dục hay rèn luyện phẩm chất nhân bản cho con người trong phạm vi một tác phẩm văn học thì không có tác phẩm nào “ lợi hại” bằng Truyện Kiều”.
Nói về công tác nghiên cứu Truyện Kiều trong nước ta có thể nhìn nhận về cả một kho tàng những công trình lớn nhỏ của các học giả nhiều thế hệ. Các nhà nghiên cứu trong hội Kiều học học nghiên cứu ở nhiều khía cạnh khác nhau…nhưng ở họ đều là những học giả có chung niềm đam mê nghiên cứu, khám phá Truyện Kiều theo những hướng đi riêng. Trong khoảng 10 đến 20 năm trở lại đây , ngành Kiều học được xem là một trong những ngành phát triển mạnh nhất. Theo tiến sĩ Trần Trọng Dương, viện nghiên cứu Hán Nôm: Trong 20 năm qua cả nghành nghiên cứu đã mở ra một hướng đi mới, là hướng đi “ tầm nguyên”, do Giáo sư Hoàng Xuân Hãn là người khởi xướng. Và từ hướng đó, các nhà nghiên cứu đã đi tìm các hệ văn bản, và liên tục các văn bản mới từ cuối thế kỷ XIX được phát hiện và mỗi một lần phát hiện là một lần mở rộng biên độ của nghiên cứu, mở rộng tầm hiểu biết của chúng ta về Truyện Kiều. mở rộng tầm tri thức mới về cả văn bản học, lẫn ngôn ngữ, văn chương. Và việc xuất bản các công trình nghiên cứu như để tạo ra các hiệu ứng xã hội, khiến cho kể cả những người bình thường vẫn tìm đến những văn bản nôm, thậm chí có những người học được chữ nôm từ văn bản Truyện Kiều.Điều đó cho thấy sức lan tỏa Truyện Kiều lớn đến mức nào, không chỉ là ngôn ngữ mà mở rộng sang biên độ văn tự, mở văn hóa, mở chữ nghĩa, khiến người Việt hiện nay có tâm thức muốn tìm lại quá khứ dân tộc, tìm lại vẻ đẹp truyền thống. Đó là điều lớn nhất Truyện Kiều làm được cho xã hội.
Truyện Kiều không chỉ có vị trí quan trọng trong dòng chảy văn học, văn hóa dân tộc mà giá trị của Truyện Kiều đã vượt biên giới để đến với nhiều dân tộc trên thế giới. Truyện Kiều đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng như: Anh, Pháp, Nga, Đức, Trung Quốc, Tây Ban Nha, Tiệp Khắc, Hungary, Bulagaria, Nhật bản, Lào, Thái Lan, Hàn Quốc…Năm 1926, dịch giả người Pháp Rơ-ne-cry-sac khi dịch Truyện Kiều đã viết bài nghiên cứu dài 96 trang, có đoạn: “ Kiệt tác của Nguyễn Du có thể sánh một cách xứng đángvới kiệt tác của bất kỳ quốc gia nào, bất kỳ thời đại nào” và ông kết luận: “ Sung sướng thay bậc thi sĩ với một tác phẩm độc đáo vô nhị đã làm rung động và ca vang tất cả tâm hồn của một dân tộc”.
Vì sao Truyện Kiều lại có vị trí như vậy trong lòng dân tộc, trong lòng dộc giả thế giới? Bởi vì ở Truyện Kiều chứa đựng đầy đủ các giá trị tinh thần lớn, đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam đó là: Lòng thương người, xem trọng con người, xem con người là trung tâm của vũ trụ từ đó nảy sinh truyền thống nhân ái, trọng tình nghĩa, trọng nhân phẩm, danh dự, lẽ phải; là lối sống khoan dung, độ lượng, lạc quan; cách ứng xử tế nghị có văn hóa, sống giản dị, mộc mạc; khuynh hướng thẩm mỹ hài hòa, yêu thiên nhiên... Những truyền thống, những giá trị nói trên đậm nhạt có khác nhau nhưng đều có thể tìm thấy trong đại kiệt tác “ Đoạn trường tân thanh” của đại thi hào dân tộc- danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Du.
Số phận đặc biệt của Truyện Kiều đã đưa Nguyễn Du về với nhân dân mình, dân tộc mình đến với nhân loại. Có một hằng số lịch sử không thể vượt qua ấy là vì Truyện Kiều đã thuộc về nhân dân, dân tộc, thuộc về lịch sử. Là vì hơn 200 năm nay, nhân dân, thậm chí nhân loại đã đọc thấy “tâm hồn” của mình của dân tộc mình, lối cảm, nghĩ của chính mình; tìm thấy sắc diện “ bản lai diện mục” của chính mình. Đọc Truyện Kiều là đọc tâm hồn dân tộc, đến với Truyện Kiều là đến với hồn dân tộc: “ Giá đem lòng tôi đọc Nguyễn Du. Có phải đã hiểu nhân dân mình thêm chút nữa”( Đọc Kiều- Chế Lan Viên). Trong bài “ Đặc sắc của văn học cổ điển Việt Nam qua nội dung Truyện Kiều.” GS Đặng Thai Mai đã đưa ra nhận định: “ Người dân Việt Nam bất kì thuộc về tầng lớp nào, không ai là không thích nghe kể Truyện Kiều, ngâm Kiều, lẩy Kiều. Người ta nhớ lấy từng câu, từng đoạn và dẫn dụng vào câu chuyện hằng ngày, khi nói đến nhân tình thế thái.” Hoặc chính ông J. Budaren một học giả nước ngoài cũng nói: “ Truyện Kiều… là cuốn sách kinh điển…, nhưng là thứ kinh điển mà mọi người đều biết” . Chỉ ngần ấy thôi, cũng đủ thấy sức sống của Truyện Kiều trong tâm thức những người con đất Việt là bền bỉ, lâu dài và cũng hết sức mãnh liệt. Nó xứng đáng là một kiệt tác có sức sống vượt thời gian bởi nó không chỉ là câu chuyện về văn chương Việt mà còn là ý thức và bản ngã về văn hóa Việt, bản sắc Việt, bản lĩnh Việt, tâm hồn Việt.
29/9/2020
Hoài Song – GVTHCS Nguyễn Du
Nguồn: http://hatinhcity.edu.vn/
CÙNG CHUYÊN MỤC
-
Tiếng Việt trong Truyện Kiều - Lung linh hương âm Xứ Nghệ
“Lời quê chắp nhặt dông dài; Mua vui cũng được một vài trống canh.” (Trích “Truyện Kiều”) Cho đến nay, hơn hai thế kỷ đã đi qua, Truyện Kiều vẫn là “thiên thu tuyệt diệu từ” trong kho tàng văn chương Việt Nam. Đứa con tinh thần của Đại thi hào Nguyễn Du đã làm vinh dự cho... -
Một số từ địa phương Nghệ Tĩnh trong truyện Kiều
Nhà văn Nga M.Gorki từng nói: “Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học”. Văn chương là loại hình nghệ thuật lấy ngôn từ làm chất liệu xây dựng hình tượng, phản ánh đời sống. Tài năng và sức sáng tạo của một nhà văn thể hiện ở trình độ sử dụng ngôn ngữ để biểu đạt những nội dung tư... -
70 kỷ lục mới phát hiện trong Truyện Kiều
Truyện Kiều của Đại thi hào Nguyễn Du (1765 – 1820) qua hàng trăm năm được đón nhận như một kiệt tác của dân tộc. Đã có nhiều hình thức văn hóa, văn học Kiều sâu rộng như tập Kiều, bói Kiều, lẩy Kiều, bình Kiều, vịnh Kiều, đố Kiều, viết tiếp Truyện Kiều, Truyện Kiều đọc ngược, giai...